Thứ Ba, 7 tháng 4, 2020

PHÒNG TRỪ SÂU BỆNH CHO BƯỞI DA XANH


PHÒNG TRỪ SÂU BỆNH CHO BƯỞI DA XANH
Nói chung là bưởi da xanh thuộc họ hàng cây the, vỏ trái có 1 chất giống như gas vậy, nếu bạn nặn vỏ, xịt vào ngọn đèn lửa hở thì nó bùng cháy nghe phèo phèo ghê lắm. Do đó, phần lớn côn trùng khi ăn phải vỏ bưởi chúng đều bị chóng mặt, nhức đầu, nặng thì chúng té xuống gốc cây bò lên không nổi, nhẹ thì cũng bị chim sâu nó ăn… Khi bạn phát hiện sâu hai trên cây bưởi nhà mình thì bạn không cần phải lo lắng, sợ hãi gì cả, càng không nên tức giận làm gì vì sau đây tác giả sẽ giới thiệu cho bạn rất nhiều cách để tiêu diệt chúng nó, mời bà con cứ bình tĩnh mà tham khảo:
● Kinh nghiệm phát hiện và diệt sâu hại:

Sâu non của sâu đục thân tuổi nhỏ đục những cành tăm trên tán làm héo ngọn cành. Sâu đục dần xuống cành to và thân thải phân qua các lỗ đục ra ngoài. Sâu non đục gốc mới hại nhìn thấy một lớp mùn gỗ nhỏ màu nâu trắng bám vòng quanh gốc cây, lấy tay gạt lớp mùn cưa này thấy vết sâu ăn lỗ chỗ vỏ cây. Sâu còn nhỏ thường ở tuổi 1-3, kích thước bằng chiếc kim đến cái tăm, dài 3-10 mm màu trắng sữa đến đỏ nâu. Khi thấy cành to của cây hay toàn cây cằn cỗi, lá chuyển sang màu vàng là lúc sâu tuổi lớn 4-5, đục sâu vào cành lớn, thân cây hoặc vòng quanh gốc, phân rơi nhiều quanh vết sâu đục; sâu non đẩy sức gần bằng chiếc đũa ăn cơm, dài 50-100 mm, màu vàng ngà, chuẩn bị hóa nhộng trong lỗ đục ở thân hoặc gốc cây.
Cách trị sâu: Khi phát hiện thấy sâu hại, bẻ cành tăm héo bắt sâu non. Dùng mũi dao, ngọn mây hoặc dây phanh lụa xe đạp luồn quanh vết sâu đục chọc chết sâu ở thân cành hay gốc cây. Có thể hòa thuốc trừ sâu loại có tác dụng tiếp xúc mạnh với nồng độ cao 5-10%, độ độc với người thấp như: Sokupi 0,36AS; Sherpa 25EC; Abamectin 36EC, Palcon200EC… cho vào bơm tiêm nhỏ tiêm vào lỗ sâu đục để diệt sâu.
● Bệnh Loét: (Xanthomonas campestric pv. citri)
Trên lá xuất hiện những đốm nhỏ sần sùi, mầu nâu nhạt, mọc nhô cao lên khỏi bề mặt của lá, xung quanh những đốm này có quầng mầu vàng, nếu bị nặng có thể làm cho lá bị khô, rụng sớm. Trên cành (chủ yếu là cành bánh tẻ, cành già ít bị hơn) cũng bị các vết đốm làm cho cành sần sùi, nếu bị nặng cành đó có thể bị chết khô.
Ngoài cây bưởi bệnh còn gây hại cho những cây thuộc nhóm cây có múi như cam, chanh, quýt, nhất là trên cây chanh. Vào các tháng mùa mưa do thời tiết có ẩm độ cao phù hợp với bệnh nên bệnh thường phát triển và gây hại nhiều hơn. Bệnh thường tấn công gây hại trên các bộ phận non của cây như lá non, cành non và cả trên vỏ của trái. Vi khuẩn xâm nhập vào trong cây qua các khí khổng hoặc những vết thương cơ giới do cắt tỉa hoặc do côn trùng chích hút (nhất là những đường gặm do sâu vẽ bùa trên lá gây ra). Khi đã xâm nhập được vào bên trong cây vi khuẩn sinh sản rất nhanh trong các tổ chức mô cây, lúc đầu vết bệnh chỉ là những chấm nhỏ sũng nước, màu xanh tối, rồi chuyển dần sang màu vàng nâu, sau đó do tác động sinh hóa làm cho tế bào của cây bưởi phân chia rối lọan tạo thành các vết loét sần sùi mầu nâu nhạt, mọc nhô lên khỏi mặt lá, cành non … xung quanh vết bệnh có quầng vàng. Nếu bị hại nặng bệnh có thể làm cho lá bị vàng, rụng sớm khiến cho cây còi cọc, suy yếu. Cành có thể bị khô và chết (từ chỗ bị bệnh trở lên). Đây là một bệnh nguy hiểm trên cây có múi, nên nhiều nước đã coi đây là một đối tượng thuộc diện kiểm dịch thực vật trong việc nhập giống và trái thương phẩm.
Khi cây đã bị bệnh thì rất khó chữa trị, vì thế để hạn chế tác hại của bệnh các bạn cần phải chủ động áp dụng các biện pháp phòng ngừa sớm.
Sau đây là một số biện pháp:
– Không trồng cây con đã bị nhiễm bệnh.
– Thiết kế liếp trồng hình mai rùa, cao ráo thoát nước tốt trong mùa mưa để hạn chế ẩm độ trong vườn.
– Không nên trồng bưởi quá dầy, để vườn luôn được thông thoáng.
– Bón phân cân đối giữa đạm, lân và kali, nên bón thêm phân hữu cơ đã hoai mục để tăng cường sức chống đỡ bệnh cho cây. Khi cây đã bị bệnh nên bón thêm phân kali.
– Thường xuyên vệ sinh vườn bưởi bằng cách cắt bỏ và thu gom những cành lá trái đã bị bệnh còn ở trên cây (hoặc đã rụng xuống đất) đem tiêu hủy. Nếu làm tốt biện pháp này sẽ có hiệu qủa phòng ngừa rất cao.
– Áp dụng những biện pháp thích hợp để phòng trị sâu vẽ bùa, vì vi khuẩn gây bệnh thường xâm nhập vào lá thông qua các vết cắn phá của lọai sâu này (chú ý các đợt cây ra đọt, lá non).
– Khi cây đã bị bệnh tránh tưới nước theo kiểu phun mưa để hạn chế bệnh lây lan từ tầng trên xuống tầng dưới của cây.
– Cắt và tiêu hủy những cành, lá, trái bị bệnh, vệ sinh nghiêm nhặt kể cả quần áo nông dân làm vườn.
– Hạn chế tối đa việc làm sây sát lá và trái, đặc biệt là phòng trị sâu vẽ bùa.
– Phun các loại thuốc như:  Kasuran, Funguran, Bordeaux, Coc, Sulonil 720SC…
– Ở những vườn thường  bị bệnh gây hại cần dùng một trong những lọai thuốc như: Copper-B 75WP, Copper-zinc 85WP, Tilt super 300EC, Champion 77WP, Vidoc 80BTN, Starner 20WP, COC 85WP, Kocide 61,4DF, Kasuran 47WP, vôi (clorin 0,3-0,5% ) … để phun xịt vào lúc cây đang phát triển lá non. Đến khi cây đậu trái thì định kỳ 2 tuần phun một lần cho đến khi trái già chín. Với những vườn đang bị hại nhiều có thể dùng một trong vài lọai thuốc như: Kasuran 47WP, Kasumin 2L…để phun trị bệnh. Liều lượng và cách sử dụng thuốc các bạn có thể đọc hướng dẫn có in trên vỏ bao bì.
xem thêm về bệnh loét tại địa chỉ:
● Bệnh thối gốc, chảy mủ: (nấm Phytopthora nicotianae)
– Triệu chứng: Bệnh gây hại trong điều kiện ẩm độ cao, nhiệt độ thấp, độ pH đất thấp thích hợp cho nấm phát triển và gây hại. Ở phần gốc có những vết nhũn nước, nhựa chảy ra, lúc đầu có màu vàng, sau đó khô cứng lại có màu nâu. Vết bệnh sau cùng khô và nứt, ngay vết bệnh vỏ trong bong ra. Bệnh có thể phát triển nhanh vòng quanh thân hoặc rễ chính làm lá bị vàng, nhất là gân lá, kế đó lá rụng, bệnh nặng lá trên cành rụng gần hết, cành khô chết.
– Phòng trị:
+ Không nên ủ cỏ sát gốc vào mùa mưa, cách gốc 20-30cm.
+ Dùng Bordeaux 1%, Copper Zinc 85 WP, Mancozeb 80 WP, Dithane M 45 WP, Champion 77 WP, Acrobat MZ 90/600WP… pha đặc phết vào vết bệnh 7 ngày/lần, để ngừa phết  2 lần/năm vào đầu và cuối mùa mưa.
+ Khi bệnh gây hại trên cây phun thuốc gốc đồng (như Champion 77 WP, Copper Zinc, Curzate M8 80WP), nhóm Mancozeb (Manzate 80WP), nhóm Metalaxyl (Ridomil 72 WP), nhómFosetyl Aluminium (Aliette 80 WP).
Vết bệnh ở gốc, clấy dao cạo sạch vỏ chỗ bị bệnh, rồi dùng Alpine 80WDG pha 20gram thuốc trong một lít nước hoặc dùng các loại thuốc trên pha đặc rồi quét lên chỗ vừa cạo. Hoặc nếu không cạo thì dùng quét lên thôi cũng được.
Phải cào hết đất xung quanh gốc cho thông thoáng… đừng để úng nước.
●  Bệnh Vàng lá thối rễ: (do nấm Fusarium solani tấn công rễ con làm thối rễ)
– Triệu chứng: Bệnh thường gây hại nặng trong mùa mưa lũ hoặc sau khi tưới nước ra hoa (khi trái đã lớn). Cây bị bệnh lá vẫn bình thường, nhưng gân lá có màu vàng trắng, phiến lá ngã màu vàng xanh và sau đó rụng đi. Lúc đầu chỉ có một vài nhánh biểu hiện vàng, rụng lá, nhưng sau đó toàn cây sẽ bị rụng lá. Cây bị bệnh cho nhiều chồi ngắn, lá nhỏ, nhiều hoa, trái, trái chua và cuối cùng cây chết hẵn. Đào rễ lên thấy phía cành rụng lá rễ bị thối, vỏ rễ tuột khỏi phần gỗ, gỗ bị sọc nâu lan dần vào rễ lớn. Bệnh nặng tất cả rễ bị thối và cây chết.
– Phòng trị:
+ Trồng nơi đất cao, thoát nước tốt, nếu vườn thấp phải làm bờ bao
+ Nếu phát hiện sớm, cắt bỏ rễ bị thối, bôi thuốc vào vết cắt.
+ Bón thêm phân lân, kali hoặc tưới MKP để cây phục hồi nhanh hơn.
+ Cây mới chớm bệnh tưới thuốc nhóm Benomyl, nhóm Metalaxyl (Ridomil 72 WP) nhóm Carbendazim (Carbenzim 500FL, Derosal 50 SC).
+ Bón phân chuồng hoai mục + tưới Tricô – ĐHCT liều lượng 7-10g/gốc.
● Bệnh vàng lá Greening: (bệnh vàng lá gân xanh)
– Triệu chứng: Triệu chứng điển hình là lá bị vàng lốm đốm nhưng gân vẫn còn xanh, gân bị sưng rồi trở nên cứng và uốn cong ra ngoài, lá phía trên ngọn nhỏ và hẹp biểu hiện triệu chứng thiếu kẽm, cây thường cho bông và trái nghịch mùa nhưng dễ rụng, trái nhỏ, méo mó và có nhiều hạt lép đen. Cây bị bệnh hệ thống rễ cũng bị thối nhiều. Thường cây bị bệnh thì trên các lá non có triệu chứng thiếu kẽm, thiếu Mangan và thiếu Magesium.
– Tác nhân: do vi khuẩn Liberobacter asiaticus, rầy chổng cánh (Diaphorina citri) làm môi giới truyền bệnh, mầm bệnh không lưu truyền qua trứng rầy và hạt giống.
– Phòng trị:
+ Trồng cây sạch bệnh.
+ Loại bỏ cây đã nhiễm bệnh để tiêu hủy mầm bệnh, tránh chiết, tháp và lấy mắt trên các cây nghi ngờ có mầm bệnh.
+ Khử trùng dao kéo khi cắt tỉa cành.
+ Trồng giống sạch bệnh và nên cách ly với vùng nhiễm bệnh, vườn trồng phải có cây chắn gió để hạn chế rầy chổng cánh di chuyển từ nơi khác tới.
+ Khi cây bị nhiễm nhẹ, cắt tỉa và tiêu hủy các cành, cây bị bệnh để tránh lây lan. Khi cây bị nhiễm nặng cần loại bỏ toàn bộ cây ra khỏi vườn.
+ Phun thuốc trừ rầy chổng cánh vào các đợt ra lá non như: Applaud- Bas, Butyl, Bascide, fenbis, Secsaigon…
xem thêm thông tin về bệnh vàng lá gân xanh tại:
http://nimbivip.com/Sites/Web/Detail.aspx?CateId=102&PostID=124
● Bệnh Đốm rong (do tảo Cephaleuros virescens Kunze gây ra):
Bệnh đốm rong, do một loài rong có tên là Cephaleuros viresens gây ra. Ngoài bưởi và những cây thuộc nhóm có múi khác như cam, quýt…, bệnh còn xuất hiện rất phổ biến trên ổi, chôm chôm, sầu riêng, nhãn, măng cụt, vú sữa…
– Triệu chứng: Bệnh thường gây hại trên thân, ít thấy trên trái và lá. Bệnh phát triển mạnh trong thời kỳ mưa dầm, vườn trồng dày, thiếu chăm sóc, vườn cây già. Vết bệnh lúc đầu là những chấm nhỏ màu xanh, sau đó lớn dần có hình tròn hoặc bầu dục, trên vết bệnh có lớp tơ mịn như nhung màu xanh rêu, giữa vết bệnh có màu đỏ gạch. Bệnh nặng lan dần lên các nhánh trên, đôi khi lan lên trái nếu vườn phun nhiều phân bón lá cho cây.
Trên lá, vết bệnh là những đốm tròn hoặc hơi tròn, hơi nổi lên cao hơn bề mặt của phiến lá một chút. Do có lớp rong phát triển nên nhìn giống như một lớp nhung mịn, màu nâu đỏ gạch cua. Vết bệnh chỉ xuất hiện ở mặt trên của lá, còn mặt dưới, nơi có vết bệnh ban đầu vẫn bình thường, về sau chuyển dần sang màu nâu đen do rong tấn công vào tế bào biểu bì làm hủy hoại mô lá. Nếu bị hại nặng, lá trở nên thô cứng và rụng sớm, cây còi cọc, phát triển kém.
– Bệnh thường xuất hiện và gây hại cây bưởi vào mùa mưa.
– Phòng trị:
+ Không trồng dày, nên tỉa cành tạo tán, tạo thông thoáng cho vườn.
+ Không nên phun phân bón lá định kỳ.
+ Phun thuốc khi cây bị bệnh nặng, có thể sử dụng thuốc Mancozeb, Kumulus 80DF, Microthiol special 80WP hoặc Chlorine 0,5%.
+ Ngừa bệnh có thể dùng thuốc gốc đồng (Coc 85 WP, Booc đo 1‰, Đồng Oxyclorua, Copper-B, Kocide, Copper-Zinc 75WP, Champion …) hoặc pha đặc quét lên thân, cành già vào đầu và cuối mùa mưa.
● Bệnh ghẻ: (nấm Elsinoc fawcetii gây ra)
– Triệu chứng: Vết bệnh có màu nâu nhạt nổi lên mặt dưới lá, trên cành non và trái, bệnh ghẻ không có quầng vàng xung quanh như bệnh loét.
– Gây hại:  Nấm thường tấn công trên đọt non, cành non và trái, trên lá nấm tấn công mặt dưới lá làm cho lá bị sần sùi, biến dạng, giảm khả năng quang hợp, giảm đi giá trị thương phẩm của trái.  Bệnh phát triển và lây lan mạnh trong mùa mưa và qua nước tưới.
– Biện pháp phòng trị:
+ Vệ sinh vườn, cắt tỉa và tiêu hủy ngay các cành, lá, trái bị bệnh.
+  Phun thuốc: Zin, Dipomat, COC, Oxyclorua đồng, Funguran, Dithan- M…
● Bệnh Tristeza:
– Triệu chứng: Bệnh Tristeza do virus làm hỏng mạch dẫn nhựa từ trong thân cây xuống rễ, làm rụng lá, chết đọt, lùn cây và làm cho bộ rễ bị thoái hóa. Bệnh lây lan qua mắt ghép, hoặc do các loài rầy mềm như: rầy mềm nâu, rầy mềm đen, hoặc rầy mềm trên bông, chích hút nhựa cây và lan truyền bệnh.
– Phòng trị: Trồng giống sạch bệnh, xịt thuốc trừ rầy vào các đợt ra đọt, lá non để tránh lan truyền mầm bệnh.
● Nhện:
– Cả ấu trùng và thành trùng đều rất nhỏ, màu nâu, vàng lợt hoặc trắng trong tùy loại, không cánh, có 8 chân giống như nhện.
– Gây hại:  Cả ấu trùng và thành trùng thường chích hút lá non và bên ngoài vỏ trái non làm vỏ trái bị sần sùi như da cám.
– Biện pháp phòng trị:
+  Trong tự nhiên cũng có nhiều loài thiên địch có thể làm giảm mật số của nhện.
+  Có thể áp dụng biện pháp canh tác để hạn chế nhện chích hút trái bằng cách bao trái lùc còn nhỏ.
+ Phun các loại thuốc bảo vệ thực vật khi cần thiết như:  Comite, sulox, Ortus, dầu D- C Tronplus…
+ Phát hiện thật sớm khi vừa đậu trái và phun các loại thuốc trừ nhện cho đến khi trái lớn như nhóm Propargite (Comite 73 EC), nhóm Sulfur (Sulox 80WP), Fenpyroximate(Ortus 5 SC).
● Sâu đục vỏ trái:
– Cách gây hại: Sâu chủ yếu gây hại phần vỏ trái, không ăn phần múi của trái. Sâu tấn công khi trái còn rất nhỏ, vết đục tạo nên những u sần trên trái, nếu bị nặng trái sẽ rụng. Nếu sâu tấn công vào giai đoạn trễ hơn, trái vẫn phát triển nhưng sẽ bị biến dạng, vỏ u sần, trái bị giảm giá trị thương phẩm.
– Phòng trị:
+ Theo dõi, thu gom những trái bị nhiễm (trên cây hoặc trái rụng xuống đất), đem chôn sâu để diệt sâu còn ở vỏ trái.
+ Có thể sử dụng thuốc chọn lọc để phòng trị khi vừa tượng trái non, phun liên tiếp 2 lần, mỗi lần cách nhau 5-7 ngày.
+ Sử dụng chất dẫn dụ phái tính (sex pheromone).
+ Dùng dầu khoáng cũng có tác dụng phòng ngừa tốt.
● Rầy mềm: (Toxoptera aurantii)
– Cách gây hại: Rầy chích hút nhựa làm đọt non không phát triển và biến dạng, phân chúng thải ra có nhiều chất đường mật kích thích nấm bồ hóng phát triển trên lá làm giảm khả năng quang hợp. Rầy mềm còn là môi giới truyền bệnh Tristeza .
– Phòng trị:
+ Tỉa cành để cây ra đọt non tập trung.
+  Nuôi kiến vàng để khống chế mật số của rầy.
+ Trong tự nhiên có những loài ong ký sinh thiên địch tấn công rầy mềm như: bọ rùa, green lacwing, ruồi ăn rệp (Syrphidae) và ong ký sinh thuộc họ Aphididae.
+ Trị các loại thuốc như nhóm Acephate (Lancer 75 WP), nhóm Buprofezin (Butyl 10 WP, Applaud 10WP), nhóm Fenobucarb (Bassa 50ND), dầu khoáng.
+  Phun thuốc lúc cây ra đọt non khi có rầy xuất hiện bằng các loại như: Lancer, Secsaigon, Vibasu, Pyrinex, dầu D- C Tronplus…
● Rầy chổng cánh: (Diaphorina citri)
– Cách gây hại: Khi mật số cao, sự chích hút của rầy làm cho chồi bị khô, rụng lá, gây hiện tượng khô cành. Rầy còn truyền vi khuẩn Liberobacter asiaticum gây bệnh Vàng lá greening cho cây.
– Phòng trị:
+ Loại bỏ nguồn bệnh ra khỏi vườn.
+ Trồng giống cây sạch bệnh.
+ Điều khiển đọt non ra tập trung, trồng cây chắn gió chung quanh vườn.
+ Không trồng cây kiểng như Cần thăng, Nguyệt quới, Kim quýt trong vườn.
+ Nuôi kiến vàng Oecopphylla smaragdina.
+ Sử dụng bẫy màu vàng vào các đợt ra lộc non, cứ 5 cây/hàng đặt 1 bẫy. Khi phát hiện thành trùng, dùng thuốc hóa học hoặc dầu khoáng nồng độ 0,5% phòng trị.
+ Chỉ sử dụng thuốc trừ sâu khi thật cần thiết, có thể dùng các loại thuốc nhóm Fenobucarb (Bassa), Thiamethoxam (Actara), hoặc Buprofezin (Applaud)
+  Sử dụng thuốc hóa học phun vào lúc cây ra đọt non bằng các loại thuốc như: Applaud- Bas, Butyl, Bascide, fenbis, Secsaigon…
● Sâu vẽ bùa: (Phyllocnistis citrella)
– Sâu non đục vào lá gây nên những đường ngoằn ngoèo, thường đi chung với bệnh loét gây nên, ảnh hưởng đến sự phát triển của đọt non.
– Phòng trị: Trong tự nhiên có nhiều loài ong ký sinh thuộc họ Encyrtidae và Enlophidae ký sinh trên nhộng. Phòng trị sâu vẽ bùa ngay trong giai đoạn ra lá non như vào đầu mùa mưa, tỉa cành cho ra đọt non tập trung, mau thành thục để hạn chế sự phá hại của sâu. Phun thuốc ngay khi lá non vừa có triệu chứng đầu tiên (25% đọt hoặc lá non) bằng các loại thuốc nhóm Abamectin (Tập kỳ, Vibamec) hoặc Imidacloprid (như Confidor).
Sử dụng các loại thuốc hóa học như : fenbis, Lancer, Diaphos, vibasu, Supracide…
● Bù lạch:
– Cách gây hại: Bù lạch tấn công trên lá non, hoa và cả trên trái.
– Phòng trị: Dùng bẫy màu vàng đặt khi cây ra hoa để phát hiện. Khi thấy có triệu chứng đầu tiên trên trái, tiến hành phun các loại thuốc nhóm Artemisinin (Visit 5 EC), Malathion (Malate 73 EC), nhóm Dimethoate (Fenbis 25 EC).
● Bọ xít xanh hại quả (phynchocoris humeralis):
Bọ xít chích hút nước quả, làm quả chai sần và rụng. Nên phòng trừ, cấy các ổ kiến vàng vào thân cây, sử dụng Trebon và Applau-Mip.
● Sâu đục thân cành:
Sâu đục rỗng thân cành gây chảy mủ, cành chết. Sâu đùn mạt cưa ra ngoài miệng hang. Phòng trừ bằng cách cắt bỏ các cành bị hại nặng trước lúc sâu lột xác thành con trưởng thành, chích thuốc trừ sâu vào lỗ đục (có thể rải ít basudin), dùng móc sắt bắt sâu.
● Sâu đục trái Bưởi

– Hiện nay, trên một số vườn cây có múi ở tỉnh Sóc Trăng, Hậu Giang,… đang bị một loài sâu mới tấn công (phổ biến trên bưởi, cam sành và chanh), gây thiệt hại nghiêm trọng, làm trái rụng hàng loạt, ảnh hưởng rất lớn đến năng suất. Ở Bến Tre, đã có xuất hiện loài sâu này, mặc dù chưa phổ biến. Tuy nhiên với diện tích cây có múi được trồng khá lớn, nhất là bưởi Da Xanh hiện đang là loại cây trồng mang lại hiệu quả kinh tế rất cao, thì đây là đối tượng dịch hại đe dọa lớn cho các vườn bưởi Da Xanh mà nông dân cần cảnh giác, nhận biết và phát hiện sớm để có biện pháp phòng trị kịp thời, hạn chế lây lan trên diện rộng.
– Theo sự định danh của PGS.TS. Nguyễn Văn Huỳnh thì đây là loài sâu đục trái có tên khoa học là Citripestis sagittiferella, họ Pyralidae, bộ Lepidoptera. Theo kết quả khảo sát bước đầu của Ths Vũ Bá Quan (Phòng NN & PTNT huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng) cho biết về hình thái, sinh học và tập quán gây hại của sâu đục trái Citripestis sagittiferella trên cây có múi, như sau:
+ Bướm có màu từ nâu đậm đến xám nâu, trên cánh trước có những vệt màu đậm dọc theo gân cánh. Bướm nhỏ, có dạng hẹp và dài do cánh xếp dọc thân mình, dài khoảng 10 – 12 mm, khi đậu đầu hơi nhô cao và có 2 râu hơi cong từ trước đầu kéo dài hơn nửa thân mình. Bướm bắt đầu đẻ trứng sau khi vũ hoá 2 ngày, đẻ trứng trên mặt vỏ trái vào ban đêm. Bướm sống khoảng 1 tuần lễ.
+ Bướm đẻ trứng rời rạc từng trứng hoặc từng ổ (4 – 8 trứng) trên vỏ trái, trứng mới đẻ có màu trắng đục, lúc sắp nở có màu cam đỏ. Trứng có hình như vảy cá nhưng hơi phồng lên như bánh tiêu. Thời gian ủ trứng khoảng 5 – 7 ngày. Trứng thường được đẻ trên trái non, nhưng cũng đẻ trên trái già khi mật số bướm cao.
+ Sâu mới nở có màu vàng cam, sâu càng lớn thì màu càng đậm hơn, sâu đẫy sức dài khoảng 19 – 22 mm, có màu đỏ nâu và chuyển sang màu nâu xanh trước khi hóa nhộng. Sâu mới nở đục ngay vào vỏ trái (ở bên trong vỏ trái, sâu khoảng 3 – 5 mm), ăn vỏ trái sau đó sâu lớn dần, đục sâu vào bên trong để ăn thịt trái. Đường đục của sâu vừa mở đường cho nấm bệnh vừa hấp dẫn ruồi đục trái đến gây hại khiến trái bị thối và rụng sớm. Giai đoạn sâu non kéo dài khoảng 2 tuần. Sâu đẫy sức chui ra khỏi trái và rơi xuống đất để làm nhộng, chúng nhả tơ kết dính các hạt đất tơi mịn và các mảnh vụn hữu cơ lại thành kén để bảo vệ chúng. Nhộng màu nâu đậm, dài khoảng 12 – 14 mm. Thời gian làm nhộng khoảng 10 – 12 ngày.
– Bà con cần thăm vườn thường xuyên, phát hiện ngay khi sâu mới bắt đầu gây hại. Triệu chứng trên trái có những lổ đục do chúng đục khoét và mỗi lổ đục có một con sâu non cư ngụ và tấn công. Trong lúc đục lổ, chúng tuôn ra ngoài các chất cạp từ vỏ trái chung cả với phân của chúng nên rất dễ phát hiện. Các chất thải ra, dẽo, hơi nhão dính trên miệng lổ đục. Sâu non gây hại trên trái bưởi khi bưởi đạt kích thước bằng nắm tay cho đến trái sắp thu hoạch. Khi trái bị tấn công thì sau một thời gian bị rụng, ảnh hưởng đến năng suất và sản lượng rất lớn.
– Để hạn chế kịp thời tác hại của sâu đục trái Citripestis sagittiferella trên cây có múi, tránh lây lan trên diện rộng. Từ các kết quả khảo sát và thử nghiệm ban đầu của các nhà khoa học, cần thực hiện một số biện pháp phòng trừ tạm thời như sau:
+ Nuôi kiến vàng và tạo điều kiện cho kiến phát triển trong vườn cây có múi.
+ Thu gom tất cả các trái bị sâu đục rụng xuống đất hay còn trên cây, sau đó đem tiêu huỷ bằng cách đào hố chôn hoặc cho vào bao nylon cột kín lại để diệt sâu còn ở bên trong trái.
+ Cắt tỉa nhánh sau thu hoạch để vườn thông thoáng, kết hợp với việc bón phân bồi sình để vừa diệt nhộng.
+ Khoảng 1 tháng sau khi đậu trái nên tiến hành bao trái bằng loại bao thích hợp. Nên phun thuốc bảo vệ thực vật để “vệ sinh” trái trước khi bao trái.
+ Vì hiện nay chưa có loại thuốc nào đã đăng ký và cho phép sử dụng trừ loài sâu đục trái này trong danh mục thuốc BVTV được phép sử dụng ở Việt Nam, nên trước mắt nhà vườn cần quan sát và xác định được thời điểm bướm xuất hiện; 7 – 10 ngày sau khi bướm ra rộ kiểm tra kỹ trên trái nếu phát hiện có dấu hiệu sâu non mới bắt đầu đục (qua dấu hiệu chất thải ra bên ngoài) thì đó là thời điểm phun thuốc (qua khảo sát thực tế nông dân đã áp dụng thuốc có hiệu quả) trừ sâu non tuổi 1 hiệu quả nhất. Sử dụng riêng lẻ (không phối trộn) và luân phiên một trong các loại thuốc thuộc nhóm Cúc tổng hợp và dầu khoáng như Cypermethrin, Deltamethrin; có thể phối hợp thuốc nhóm cúc tổng hợp với dầu khoáng để tăng tính hiệu quả và hạn chế tính kháng thuốc của sâu. Tuy nhiên, cần hết sức thận trọng ở các vườn có ao nuôi cá và chăn nuôi gia súc hay gia cầm. Lưu ý loại thuốc đặc trị đối với sâu và ít độc đối với thiên địch và môi trường.
Sưu tầm & Tổng hợp.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

BINH PHÁP CHIẾN TRƯỜNG

Binh Pháp - Chiến Trường :